|
||||||||||||||||
Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013
Các bài tập phục hồi chức năng cho BN liệt nửa người do tai biến mạch máu não
Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013
Chữa đau dây thần kinh tọa
Thần kinh tọa hay gặp ở lứa tuổi 30-60, nhất là những
người lao động chân tay nặng nhọc. Các nghề nghiệp có tư
thế làm việc gò bó như công nhân bốc vác, nghệ sĩ xiếc,
ba-lê, cử tạ... làm tăng nguy cơ xuất hiện và tái chứng
đau thần kinh tọa.
Dây thần kinh tọa là một dây thần kinh dài nhất cơ thể,
trải dài từ phần dưới thắt lưng đến tận ngón chân. Dây
thần kinh tọa chi phối các động tác của chân, góp phần
làm nên các động tác đi lại, đứng ngồi của hai chân.
Đau dây thần kinh tọa biểu hiện đặc trưng bằng cảm giác
đau lan dọc xuống phía đùi theo rễ thần kinh lưng 5 (L5)
và rễ thần kinh sống 1 (S1). Nếu rễ thần kinh L5 bị tổn
thương thì có hiện tượng đau dọc từ lưng eo phía ngoài
xuống ngoài động mạch cẳng chân tới tận ngón chân út.
Nếu rễ thần kinh S1 bị tổn thương thì đau dọc ra phía
sau mông, thẳng xuống sau đùi, sau bắp cẳng chân tới
phía ngoài bàn chân. Nếu bị bệnh thần kinh tọa trên (thần
kinh hông) thì đau thường tới phía trên đầu gối; nếu bị
thần kinh tọa dưới thì đau tới mắt cá ngoài bàn chân.
Trong trường hợp đau nhẹ, người bệnh vẫn đi lại, làm
việc bình thường. Nếu đi lại nhiều, đứng nhiều, ngồi
nhiều trong một ngày, đau có thể tái phát. Nếu đau nhiều
thì khi chân giẫm mạnh xuống đất, ho mạnh, hắt hơi, đi
đại tiện rặn cũng đau. Đau nặng ảnh hưởng nhiều đến khả
năng lao động.
Đau dây thần kinh tọa có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhiều
nhất là lứa tuổi 30-60, nam mắc nhiều hơn nữ. Mang vác
và lao động nặng ở tư thế sai, gò bó, rung xóc, chấn
thương, các động tác thay đổi tư thế đột ngột... là yếu
tố thường xuyên nhất làm khởi phát bệnh. Ngoài ra, yếu
tố tâm lý cũng đóng vai trò nhất định thúc đẩy xuất hiện
và tái phát bệnh thần kinh tọa.
Các nguyên nhân gây đau thần kinh tọa gồm: tổn thương ở
cột sống thắt lưng gây chèn ép rễ thần kinh, thoát vị
đĩa đệm vùng cột sống thắt lưng, các tổn thương thực thể
khác ở vùng thắt lưng (dị dạng bẩm sinh, chấn thương,
thoái hóa cột sống thắt lưng, u, viêm cột sống dính khớp,
viêm đốt sống do nhiễm khuẩn).
Phần lớn trường hợp chỉ đau thần kinh tọa một bên. Người
bệnh có tư thế ngay lưng hay vẹo về một bên để chống đau.
Tùy theo tổn thương, họ có thể không nhắc được gót hay
mũi chân, dần dần xuất hiện teo cơ đùi, mông, cẳng chân
bên tổn thương. Khi bệnh nặng, chân tê bì mất cảm giác,
có thể đái dầm, ỉa đùn.
Việc
điều trị đau thần kinh tọa phải kết hợp các biện pháp
nội khoa, đông y, ngoại khoa, tâm lý, vật lý trị liệu và
phục hồi chức năng. Trong thời gian đang
đau cấp, hoặc đợt cấp của đau thần kinh tọa mãn, người
bệnh cần nghỉ ngơi tuyệt đối trên giường và bất động,
tránh mọi di chuyển hoặc thay đổi tư thế làm căng dây
thần kinh. Người bệnh cần nằm trên giường phẳng và cứng,
nằm ngửa, hông và gối hơi gấp, nếu đau nhiều có thể nằm
co chân.
Cần dùng các thuốc chống viêm không steroid và thuốc
chống hư khớp. Nếu có đau dạ dày - tá tràng thì phải
dùng kèm các thuốc băng niêm mạc dạ dày hay tức chế bài
tiết dịch vị. Tất cả đều phải theo đúng chỉ định của bác
sĩ. Về vật lý trị liệu, có thể chườm nóng, chiếu tia
hồng ngoại laser, sóng ngắn, từ trường, điện châm, tắm
bùn, đắp bùn, tắm nhiệt, tắm suối khoáng, kéo giãn cột
sống bằng dụng cụ cho trường hợp lồi hoặc thoát vị đĩa
đệm. Nên kết hợp xoa bóp, châm cứu, ấn huyệt, thủy châm.
Phẫu thuật được chỉ định khi: điều trị nội khoa không đỡ
sau 6 tháng; hoặc có biến chứng liệt, teo cơ, rối loạn
cơ tròn; bệnh nhân đau dữ dội, đau tái phát nhiều lần,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và lao động.
Để phòng bệnh đau thần kinh tọa, cần tập thể dục vừa sức
thường xuyên để nâng cao thể lực, áp dụng các bài tập
tăng cường sự dẻo dai, khỏe mạnh của các khối cơ lưng
cạnh cột sống, cơ bụng và tăng sự mềm mại của cột sống.
Tránh mọi chấn thương cho cột sống, tránh ngã dồn mông
xuống đất. Điều trị kịp thời các bệnh thoái hóa cột sống.
Người bị đau thắt lưng tránh tuyệt đối các động tác thể
thao hoặc vận động quá mức như golf, bóng chuyền,
tennis, vác balô nặng. Không nên nằm đệm quá dày và mềm,
giường lò xo.
Các động tác sinh hoạt, lao động hằng ngày phải thích
nghi với tình trạng đau cột sống thắt lưng. Bảo đảm tư
thế đúng khi đứng, ngồi, mang vác... hay nhấc vật nặng.
Cần đứng trên tư thế thẳng, không rũ vai, gù lưng. Để
tránh khom lưng, khi đọc và viết lâu, nên ngồi gần bàn
viết, ghế không quá cao hoặc bàn viết không quá thấp.
Nếu phải ngồi lâu, nên thường xuyên đứng lên và làm các
động tác thể dục giữa giờ.
Trong lao động chân tay, cần chú ý tránh khiêng vác vật
nặng, nhất là bê vật nặng ở tư thế cúi lom khom. Để
tránh tải trọng quá mức lên cột sống, bệnh nhân có thể
đeo đai lưng khi mang vác vật nặng; hãy để cho trọng
lượng của vật chia đều cả hai bên cơ thể, không bao giờ
mang vật nặng ở một bên người hay trong thời gian dài.
Khi muốn nhấc một vật nặng lên, nên co đùi gấp gối đôi
chân gập lại vừa phải nhưng vẫn giữ lưng thẳng. Không
nên giữ thẳng hai chân và cúi cong người xuống khi nhấc.
đường đi của dây thần kinh tọa |
Tập phục hồi chức năng sau tai biến mạch máu não
Khoảng
1/3 số người bị tai biến mạch máu não sau đó bị liệt nửa người. Sau 6
tháng, gần 2/3 bệnh nhân không thể tự làm các hoạt động bình thường. Vì
vậy, ngay khi chưa xuất viện, người nhà đã phải nghĩ đến kế hoạch tập
luyện phục hồi chức năng cho họ.
Tại bệnh viện
Tuần đầu tiên: Đánh giá khả năng nuốt và trợ giúp cho bệnh nhân những hoạt động của cuộc sống hằng ngày.
Tuần thứ 2 đến tuần thứ 6:
Rèn luyện cho bệnh nhân dùng một tay để làm các công việc như mặc quần
áo, tắm rửa, đi vệ sinh. Cho bệnh nhân rèn luyện ở tay bị liệt, dùng vai
và khuỷu tay để trợ giúp cho những động tác như cầm, nắm và kéo. Cho
tập luyện có theo dõi và trợ giúp ở những khoảng cách khoảng 10 m.
Ở nhà sau khi nằm viện
Tháng thứ 1 đến tháng thứ 6:
Tập cho bệnh nhân đi bộ mỗi ngày khoảng 5 phút; cho tập những động tác
như cầm cốc, cầm sách, gấp quần áo, tập cầm nâng những đồ vật kích cỡ,
nặng nhẹ khác nhau. Mỗi ngày tập luyện khoảng 20 phút cho đến khi bệnh
nhân có thể tự làm được động tác này. Nếu bệnh nhân không thể tự làm, có
thể dùng các dụng cụ trợ giúp tay hoặc chân. Cho bệnh nhân tập theo các
dụng cụ này.
Ngoài 6 tháng:
Tăng cường đi bộ. Nếu bệnh nhân mất tiếng nói, nên cho nghe và đọc các
câu chuyện trên báo chí, truyền hình, rồi ngay lập tức cho bệnh nhân tập
kể lại câu chuyện. Tập những kỹ năng này với mức độ khó tăng dần,
khoảng 20 giờ mỗi tuần.
Khoảng
20% bệnh nhân có mất tiếng nói sau tai biến mạch máu não. Việc điều trị
cho bệnh nhân mất tiếng nên bắt đầu từ sớm, ngay trong 3 tháng đầu tiên.
Các chuyên gia tiếng nói khi tập luyện cho bệnh nhân trong giai đoạn
đầu cần có sự tham gia của những người thân trong gia đình hoặc những
người tình nguyện. Họ chính là những người sẽ tiếp tục giúp đỡ cho bệnh
nhân ở giai đoạn sau. Thời gian cho tập luyện tiếng nói phải là 40-100
giờ trong 3 tháng đầu tiên.
Sự hồi
phục thường cơ thể chỉ có ở những bệnh nhân có tổn thương mức độ trung
bình. Với những bệnh nhân bị tổn thương mức độ nặng thì sự hồi phục gần
như là không có. Với những bệnh nhân bị liệt nửa người, phải tập luyện
những động tác hỗ trợ, như tự chuyển từ giường qua xe lăn hoặc tự di
chuyển bằng kỹ năng dùng một tay. Sự tập luyện tích cực với cường độ cao
16 giờ hoặc hơn mỗi tuần có tác dụng hồi phục tốt hơn hẳn những bệnh
nhân chỉ tập luyện vài giờ mỗi tuần.
Nên tập
luyện sớm tay ngay khi tay có thể tự di chuyển được chút ít. Nếu như tay
không di chuyển được trong vòng 6 tuần đầu thì hầu như sẽ không thể hồi
phục được. Nên tập tay 3-6 giờ một ngày trong khoảng 3-6 tuần sau tai
biến. Việc dùng điện châm có thể giúp cho bệnh nhân tăng được lực co cơ,
hỗ trợ động tác duỗi và gấp tay. Tuy nhiên, nếu chỉ châm cứu đơn thuần
thì khả năng cải thiện ít hơn.
Trong
tai biến mạch máu não, liệt được chia ra liệt cứng và liệt mềm. Đa phần
các bệnh nhân là liệt cứng, chỉ một số nhỏ bệnh nhân có liệt mềm. Những
bệnh nhân liệt mềm thường bị tàn tật nhiều hơn do tay liệt mềm khó sử
dụng được. Trong khi đó, những bệnh nhân liệt cứng có thể sử dụng được
tay và chân nhiều hơn cho các động tác.
Từ đi bộ là mong muốn của tất cả các bệnh nhân tai biến mạch máu não.
Khi đang nằm viện, nếu bệnh nhân đã có thể co chân lại được, phải tập
đi từng bước. Có thể cho tập đi từng đoạn ngắn dưới nạng hoặc được người
trợ giúp. Để hồi phục khả năng đi bộ, thậm chí ngay cả đoạn ngắn, cần
phải có tập luyện. Mỗi bệnh nhân phải có ít nhất 15 phút mỗi ngày tập
cho đi bộ. Dù tập sau 3 tháng, thậm chí cả sau một năm thì vẫn có cải
thiện rõ ràng. Tuy nhiên, nếu tập sớm thì sẽ hồi phục tốt hơn.Đau lưng, châm cứu hiệu quả hơn
Nếu đau
lưng, hãy nghĩ tới những cây kim. Bởi các chuyên gia phát hiện ra rằng
liệu pháp đông y này điều trị đau lưng tốt hơn bất cứ phương pháp nào.
Phải
đến 85% chúng ta đã từng có cảm giác đau nhói một vài lần nào đó. Chỉ
riêng tại Anh, đau lưng tiêu tốn khoảng 500 triệu bảng (tương đương với
khoảng 750 triệu đô la Mỹ) mỗi năm.
Một
nghiên cứu cho thấy châm cứu là dùng các cây kim đặc biệt xuyên vào các
huyệt đạo trên cơ thể, giúp giảm đau hiệu quả hơn hẳn các các điều trị
khác.
Hàng
trăm người bị đau thắt lưng mãn đã tham gia vào nghiên cứu. Họ được
chia thành 4 nhóm. Nhóm thứ nhất chỉ châm cứu 1 lần, nhóm thứ 2 điều chị
theo liệu trình, nhóm thứ 3 là châm cứu bằng kim điện cực và nhóm cuối
cùng dùng các phương pháp tây y.
Sau
8 tuần, tình trạng đau lưng của 60% những người được châm cứu có sự cải
thiện. Trong khi phương pháp thông thường là 39%. Sau 1 năm, 59 - 69%
người được điều trị bằng châm cứu báo cáo kết quả cải thiện đáng kể, so
với 50% ở những người dùng phương pháp thông thường.
Nhà
nghiên cứu, TS Daniel Cherkin cho biết: Tất cả các hình thức châm cứu
đều có hiệu quả và tác động lâu dài đối với chứng đau lưng mãn” khi so
với phương pháp thông thường.
Với
nghiên cứu này, châm cứu hứa hẹn sẽ trở thành một lựa chọn quan trọng
trong điều trị đau lưng mãn. Bởi châm cứu không chỉ an toàn, ít tác dụng
phụ mà còn có tác dụng lâu dài.
Theo Dân trí
Bác sỹ Hải 0935820128
Châm cứu giảm béo: Ứng dụng sáng tạo của y học dân tộc
Châm cứu là phương pháp đã được
GS Nguyễn Tài Thu nghiên cứu từ những năm 60 thế kỷ trước và đã thành công.
Để
hiểu rõ hơn về phương pháp này, phóng viên báo Khuyến học & Tòa
Soạn đã có cuộc trao đổi với Thạc sĩ Nguyễn Bá Phong, bác sĩ đang công
tác tại Khoa điều trị toàn diện - Viện Châm cứu TƯ và cũng là người chủ
trì đề tài "Nghiên cứu tác dụng của Điện Mãng châm trong điều trị giảm
cân ở người béo phì".
Vừa giảm béo vừa giảm bệnh
Phương
pháp châm cứu để điều trị giảm cân được gọi là điện mãng châm. Đây là
sự kết hợp giữa phương pháp mãng châm với kích thích điện nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả chữa bệnh. Với phương pháp này, người ta sử dụng kim
mãng châm có độ dài từ 20 - 25cm (tùy theo độ dài của từng huyệt đạo,
trạng thái cơ thể của bệnh nhân cao hay thấp) để châm lên huyệt. Sau khi
đã châm kim vào huyệt, dùng lực từ từ đẩy kim theo các huyệt đạo cho
đến khi đắc khí. Khi đã đắc khí thì dùng máy điện châm dẫn khí. Mỗi vị
trí huyệt đạo khác nhau phải có thủ pháp châm kim khác nhau.
Thời
gian điều trị cho mỗi lần khoảng 30 phút với 60 ngày cho một liệu trình
điều trị. Một người béo phì có thể thực hiện nhiều liều điều trị. Trên
thực tế, cũng có thể điều trị trong thời gian ngắn hơn, từ 15 - 20 ngày
và trọng lượng được giảm khá nhiều. Song việc điều trị giảm béo một cách
từ từ được coi là phương pháp an toàn và hiệu quả nhất, vì nguy cơ béo
lại sẽ thấp hơn so với những người giảm béo nhanh.
Sau
khi áp dụng điều trị cho 35 người béo phì bằng phương pháp điện mãng
châm với liệu trình điều trị là 60 ngày, kết quả cho thấy, tất cả những
người này đều tiến triển tốt. Cân nặng trung bình của mỗi người trước
liệu trình điều trị là 67kg nay xuống còn 62,3kg. Như vậy, mỗi người
trung bình đều giảm được gần 5kg. Các chỉ số vòng bụng trung bình giảm
hơn 3cm, vòng mông giảm 5,5cm và vòng đùi giảm 3cm.Bên
cạnh việc giảm béo, dùng phương pháp điện mãng châm còn giúp người béo
phì giảm các chứng mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ. Điện mãng châm còn làm
thay đổi huyết áp và tình trạng rối loạn lipít của người béo phì. Những
đối tượng này nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn tới những biểu
hiện rối loạn khác kèm theo như glucose máu tăng, nguy cơ về các bệnh
tim mạch tăng lên, từ đó làm tăng nguy cơ về các bệnh mãn tính
Giảm mỡ bụng bằng phương pháp châm cứu
Để
thực hiện kỹ thuật mãng châm đòi hỏi bác sĩ phải là những người chuyên
môn giỏi, có thể châm lên huyệt một cách chính xác và nhẹ nhàng. Vì nếu
châm kim không chuẩn xác có thể ảnh hưởng tới sức khỏe của bệnh nhân.
Tuy nhiên, rất khó ảnh hưởng tới tính mạng của họ.
Bên
cạnh đó, đòi hỏi người có nhu cầu giảm béo phải có thái độ tích cực hợp
tác với các bác sĩ, kèm theo đó phải có sự điều chỉnh hợp lý về chế độ
dinh dưỡng.
Hiện
nay tại Việt Nam, có lẽ chỉ duy nhất Viện Châm cứu TƯ thực hiện được
phương pháp châm cứu giảm béo. Tuy nhiên, số lượng người đến Viện không
nhiều vì đa số những người béo muốn giảm cân không chỉ vì sức khỏe mà
còn vì mục đích thẩm mỹ. Bởi vậy, họ không muốn bác sĩ coi họ là những
người bệnh mà chỉ là những người có nhu cầu thẩm mỹ.
Trước
tâm lý này, ông Nguyễn Quốc Khoa, Viện phó Viện Châm cứu TƯ cho biết,
Viện cũng đang có kế hoạch mở các trung tâm châm cứu thẩm mỹ ở bên ngoài
dành cho những người có nhu cầu. Bên cạnh đó, Viện cũng sẽ mở rộng công
tác đào tạo cán bộ, như vậy mới bảo đảm được số lượng lớn bác sĩ điều
trị có chuyên môn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của đông đảo nhân dân.
Dùng vỏ quýt để trị ho
Sắc
vỏ quýt với một ít bột gừng và mật ong để uống, lấy ít vỏ quýt tươi xắt
nhỏ, cho thêm một ít đường cát trắng uống như trà hàng ngày giúp trị ho
hiệu quả.
Xin chia sẻ với các bạn một số cách trị ho trong dân gian đơn giản như sau:
- Lấy khoảng 5 gr vỏ quýt sắc với 2 chén nước cho thêm ít bột gừng và mật ong dùng để uống khi còn nóng.
Quả quýt
- Lấy ít vỏ quýt tươi xắt nhỏ, cho thêm một ít đường cát trắng uống như trà hàng ngày giúp trị chứng ho có đàm.
-
Riêng đối với trẻ nhỏ bị ho: Xắt vài lát củ cải mỏng đem ngâm trong
nước đường vài ngày. Mỗi lần dùng lấy ra một muỗng hỗn hợp này hòa với
nước nóng đợi đến khi nước còn ấm ấm thì cho trẻ uống.
-
Cũng có thể dùng một muỗng vừng (mè) sao khô rồi say nhuyễn, 6 gr hạnh
nhân, một lát gừng sống bỏ vào nồi cho thêm 2 ly nước sắc lên. Khi dùng
thì lấy một muỗng hỗn hợp ra này pha với ít mật ong để uống.
Đối
với trẻ khi bị ho thường bị mất ngủ nên lấy một miếng gừng sống xắt
mỏng, sao hơi khô lên rồi thoa nhẹ xung quanh cổ và vai sẽ giúp trẻ ngủ
ngon.
Theo Vnexpress
Bác sĩ Hải
Điện thoại: 0935820128
Điện thoại: 0935820128
Công dụng chữa bệnh của cây lá bỏng
Cây
lá bỏng còn gọi là cây sống đời, nó được gọi là lá bỏng vì lá của nó có
thể dùng làm thuốc chữa bỏng. Ngoài ra cây lá bỏng còn có tác dụng giảm
sưng, giảm đau, trừ độc và chữa các lở loét như loét thịt, loét dạ dày,
viêm ruột, trĩ nội đi ngoài ra máu, thậm chí chữa cả đau mắt đỏ...
Cách sử dụng lá bỏng để chữa bệnh rất đơn giản, có thể lấy lá tươi giã đắp hoặc vắt lấy nước để bôi hoặc ăn sống, sắc uống...
Một số bài thuốc từ cây lá bỏng:
Cây lá bỏng
- Chữa ngứa: Nếu tự dưng phát ngứa thì có thể lấy lá bỏng, nghể răm, lá ké và bồ hòn nấu lên lấy nước xông và tắm.
- Chữa chứng đi lỵ: Dùng 40g lá của cây bỏng, 16g cam thảo đất, 20g cỏ seo gà, 20g lá mơ lông. Rửa sạch sắc uống ngày 1 thang.
- Chữa bệnh kiết lỵ (viêm đại tràng): Ngày ăn 20 lá (buổi sáng 8 lá, chiều 8 lá, tối 4 lá). Từ 5-10 tuổi ăn bằng 1/2 người lớn. Ăn 5 ngày là khỏi.
- Chữa bệnh trĩ:
Dùng 6g lá bỏng, 6g rau sam. Rửa sạch nhai sống hoặc sắc uống. Nếu bị
lòi dom và lở hậu môn thì nấu nước bồ kết ngâm rửa hậu môn và giã lá
bỏng đắp vào búi trĩ.
- Chữa bệnh trĩ nội:
Mỗi ngày dùng 10 lá (sáng ăn 4 lá, chiều ăn 4 lá), tối 2 lá, nuốt bớt
nước, bã bỏ vào gạc vải đắp vào hậu môn (đóng khố như phụ nữ thấy kinh).
Nhớ trước khi đắp thuốc phải làm vệ sinh hậu môn bằng nước pha muối. Cứ
làm theo cách trên, tùy bệnh nặng nhẹ, dùng từ 20-45 ngày đều khỏi.
- Chữa chứng đại tiện ra máu: Lấy 30g lá bỏng, 10g cỏ nhọ nồi, 10g ngải cứu (sao cháy), 10g lá trắc bá (sao cháy) sắc lấy nước uống ngày 1 thang.
- Chữa viêm tai giữa cấp tính: Lá bỏng giã nát, vắt lấy nước nhỏ vào tai.
- Trị chứng viêm loét dạ dày: Lấy lá bỏng ăn sống, mỗi ngày 40g.
- Giải rượu: Khi bị say rượu dùng 10 lá bỏng rửa sạch, nhai sống rất hiệu nghiệm.
- Chữa nôn ra máu (do bị đánh, bị thương): Dùng 7 lá bỏng giã nát, thêm rượu và đường vào uống trong ngày.
- Ðau mắt đỏ và đau mắt hột:
Trước khi ngủ, đánh răng, nạo lưỡi sạch, nhai 3 lá bỏng, mút bớt nước,
đặt bã vào gạc vải (vô trùng) đắp vào mắt buộc chặt, sáng tháo ra, rửa
mắt bằng nước pha muối. Làm như trên 3 ngày liền sẽ khỏi.
- Chữa đau mắt đỏ: Giã nát lá bỏng đắp vào mắt.
-Chữa đổ máu cam: Nhai 1, 2 lá bỏng, lấy nước nhai thấm bông gòn đặt vào lỗ mũi độ 10 phút sau sẽ khỏi.
- Chữa nuôi con mất sữa: Sáng, chiều mỗi lần ăn 8 lá, sau 2 ngày sẽ có sữa.
- Chữa mất ngủ: Chiều và tối, ăn mỗi lần 8 lá, giấc ngủ sẽ đến sớm.
- Chữa mụn nhọt khi chưa có mủ: Lấy 30g lá bỏng, 15g lá đại, 20g lá táo. Rửa sạch, giã nát đắp vào mụn ngày 1-2 lần.
- Chữa chứng viêm họng:
Lấy 10 lá sống đời rửa sạch, chia nhai sáng 4 lá, chiều 4 lá, tối 2 lá.
Nhai kỹ, ngậm một lúc rồi nuốt cả bã, dùng khoảng 3-5 ngày sẽ có kết
quả. Hoặc nhai ngậm sáng 4 lần, chiều 4 lần, tối 2 lần (mỗi lần 1 lá,
đều nhai ngậm và nuốt cả bã) dùng trong 3 ngày là khỏi.
- Chữa chứng viêm xoang mũi:
Lấy 2 lá bỏng rửa sạch, giã nát, lấy bông thấm nước thuốc nút vào lỗ
mũi. Hoặc mỗi lần nhai 2 lá, lấy nước nhai lá bỏng thấm vào bông, nút
vào hố mũi bên viêm ngày 4-5 lần sẽ khỏi (Nếu viêm cả 2 bên thì sáng nút
một bên chiều nút một bên). Lưu ý, bệnh nhân trước khi nhai lá bỏng
phải đánh răng, nạo lưỡi, súc miệng 2, 3 lần cho sạch miệng mới nhai.
Theo afamily.vn
Bác sĩ Hải
Điện thoại: 0935820128
Điện thoại: 0935820128
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)